Trong thế giới động vật, rắn là một loài bò sát, không chân, di chuyển bằng vảy. Di chuyển nhanh nhạy, bắt mồi nhanh như chớp, hiền lành như rắn nước, độc địa như rắn hổ mây, nhỏ xíu như con liu điu, to xác như con mãng xà. Loài rắn rất đa dạng khoảng gần năm trăm loài trong đó khoảng 250 loài cắn có thể làm chết người. Từ thời xa xưa, không biết vì sao loài người gán cho rắn bao nhiêu là ‘tai tiếng”, nhất là nói về rắn là nói về cái gì ác độc, xấu xa. Có lẽ do rắn có nọc độc, cắn làm chết người ? Nhiều thành ngữ đến nay vẫn còn sử dụng : “Khẩu Phật tâm xà” ý nói lời nói hiền lương mà tấm lòng độc ác. “Khẩu xà tâm Phật” ý nói miệng nói điều độc ác nhưng tâm lại hiền lương. Người độc ác thì bị mắng :” gian manh xảo quyệt như loài rắn độc”; người phụ nữ dụ dỗ đàn ông làm tan nát gia đình người khác thì bị nhiếc “đồ đàn bà rắn độc”.
Ngay cả trong chuyện “Vàng hay rắn độc” kể lại trong một lần đi khất thực, Phật cùng hai vị đại đệ tử là A Nan và A Nan Đà thấy bên bờ lở một chỉnh vàng. Phật dừng lại và bảo với A Nan Đà rằng :” Này, A Nan Đà, con có thấy đây là một loài rắn độc không ? A Nan Đa cung kính bạch với Phật rằng :” Bạch đức thế tôn, thật là một loài rắn độc, đáng sợ hải”. Phật và cả đoàn tiếp tục đi. Một người nông dân nghe thấy tưởng rắn độc chạy đến để xem thì thấy cả một chỉnh vàng. Ông ta cười cho rằng Phật và các vị tăng không biết giá trị của vàng. Ông ta mang về mua đất, tậu trâu, cuộc sống đổi khác. Thiên hạ xâm xì, thấu đến tai quan. Quan xét điều tra, chỉnh vàng là của vua bị trộm. Ông ta bị ghép tội chết.
Đức Phật và cõi siêu hình
Thế nhưng, trong chuyện dân gian, truyện cổ tích, truyện dã sử và cả truyện hiện đại cũng đề cặp không ít những chuyện về rắn có tâm linh, biết cách ứng xử như người, biết đền ơn báo oán, biết lắng nghe kinh kệ.
Truyện cổ tích có chuyện “Cứu vật vật trả ơn, cứu nhơn nhơn trả oán” (Cổ tích Việt Nam-Tác giả Nguyễn Đổng Chi) kể chuyện một con rắn được một người cứu vớt trong cơn lũ lụt. Sau, người này bị hại, bị vu oan nên bị giam cầm, may nhờ rắn và các loài vật khác như kiến, chuột tìm cách giải oan, lại có cách chữa trị cho công chúa khỏi bị bệnh câm nên được lấy công chúa làm vợ. Câu chuyên nói về trí thông minh của rắn, biết đền ơn người đã cứu giúp mình thoát chết trong cơn đại hồng thủy.
Truyền thuyết có chuyện “Rắn báo oán ba đời” (Truyện cổ Việt Nam), kể rằng, một ông thầy đồ dạy học, thấy trước nhà có đám cỏ hoang và ụ đất, thầy đồ bảo sáng mai học trò đến phát quang bãi cỏ, ụ đất để mở rộng sân trường. Tối hôm đó, thầy đồ nằm mơ, thấy một người đàn bà dẫn hai đứa con đến cửa quỳ gối xin cho thư thả vài hôm chờ hai con cứng cáp dọn đi nơi khác. Ông đồ ngạc nhiên, không rõ việc gì. Ông cũng gật đầu đồng ý. Do mệt, ông thức dậy trễ, học trò đã phát quang bãi cỏ, phát hiện trong ụ đất có một rắn to và hai con rắn nhỏ. Học trò giết chết hai rắn con, chặt đứt đuôi con rắn lớn. Rắn lớn chạy thoát. Bây giờ, ông đồ mới hiểu ra giấc mộng hồi hôm. Người đàn bà là rắn mẹ, hai đứa bé là rắn con, đến xin thầy đồ hãy khoan thư dọn ụ đất để làm sân trường. Tối hôm đó, ngồi bên thư án đọc sách, một giọt máu từ trền xà nhà rơi xuống quyển sách. Thầy đồ nhìn lên, thấy một con rắn lớn cụt đuôi, nhỏ từng giọt máu. Lật sách, thấy máu thấm ba trang giấy.Thầy đồ nghĩ rắn muốn báo thù đến ba đời chăng ? Chuyện án oan tình của cụ Nguyễn Trãi và nàng Thị Lộ xuất phát từ truyền thuyết dã sử nầy đề nói về rắn báo oán.
Truyện dân gian bên Tàu kể có hai con rắn , một xanh, một trắng tu hành khổ luyện năm trăm năm, biến thành hai cô gái đẹp, dụ chàng trai học trò nên duyên chồng vợ. Sau bị thầy pháp trị, phải trở về kiếp rắn (truyện Thanh Xà, Bạch Xà).
Truyện ngày nay, là chuyện có thực, vào thập niên 40 của thế kỷ 20 (những năm 1940), tại chùa Tra Am, xã Hương Khê, tỉnh Thừa Thiên Huế, vào những ngày rằm, ba mươi, mùng một, khi các sư thầy gõ mõ, tụng kinh, có hai con rắn to, dài gần 2 m , một con dài, một con cụt hơn “rủ” nhau, bò vào chính điện, nằm khoanh tròn nghe các thầy tụng kinh, không gây hại ai. Các thầy thấy lạ, ban đầu cũng sợ, sau rồi quen dần. Nghe hết thời kinh, cả hai cùng bò vào hốc cây , hang đá sau chùa. Cặp rắn này, tu tại chùa nhiều năm. Sau do chiến tranh, các thầy không thấy cặp rắn này vào chùa nghe kinh nữa. Nhiều cụ già lớn tuổi còn nhắc lại cặp rắn tu hành này cho du khách đến chùa, chỉ chỗ hốc cây hang đá nơi căp rắn sinh sống.
Qua những mẫu chuyện trên, ta thấy, rắn là một loài vật, một động vật mà giáo lý nhà Phật xếp vào hàng súc sinh trong lục đạo ( thiên, nhơn, a tu la, súc sinh, ngạ quỹ, địa ngục) mà còn có thiên hướng tu hành. Nay ta được thân người, mà như Phật dạy muốn có thân người phải trải qua bao nhiêu kiếp. Nay lại có cơ duyên, hiểu biết Phật pháp, gần gũi với thiền na, sớm hôm cần chuyên công tu học, hành trì giới luật, giữ giới-định-huệ để tăng tiến trong tu hành, có cuộc sống an nhàn, tự tại, biết cứu giúp người hoạn nạn, bố thí cho người nghèo khó. Trong cuộc sống, ai ai cũng muốn tranh giành hơn thua thì cuộc sống luôn tạo cho con người làm ham muốn, tham, sân, si. Lòng tham cho đủ thì biết bao nhiêu cho đủ. Nên con người cần “Thiểu dục, Tri túc” (ham ít, biết đủ) thì cuộc sống thanh tịnh. Đây là điều cần thiết để vững bước trên đường tu học vậy.
Khó thay được làm người !
Khó thay sống an vui !
Khó thay nghe diệu pháp !
Khó thay Phật ra đời !
(Kinh pháp cú 182)
Chúng ta hiện nay đã vượt qua cả 4 cái khó trên. Thân người đã có. Nay biết “Thiểu dục,Tri túc” để sống an vui. Pháp Phật ngày nay đang được chư tăng ni hoằng pháp rộng khắp. Phật Thích Ca đã ra đời chỉ cho con đường Bát chánh đạo. Vậy thì tu để tiến lên cõi trời, cõi cực lạc và cao nhất là đến cõi niết bàn là cơ duyên ngàn năm hay ngàn kiếp mới có.
Nhân dịp xuân Quý Tỵ cũng xin có đôi lời với người tuổi Tỵ. Mỗi con vật trong thập nhị chi (mười hai con giáp) ứng vào tuổi con người, tuy không tin dị đoan, nhưng kiểm nghiệm cũng thấy người tuổi Tỵ có những nét rất hay hay ứng với những đặc tính của loài rắn.
Trước hết, người tuổi Tỵ thường rất thông minh, nhanh nhạy trong suy nghĩ, sâu sắc trong tính toán. Trước bất kỳ vấn đề gì, người tuổi Tỵ suy nghĩ thật sâu, tính diễn biến sự việc tiếp theo thêm năm bảy bước, thật chắc rồi mới làm, ít khi quyết định vội vàng, bộp chộp. Nên những người tuổi Tỵ thích hợp với ngành kinh doanh, thương mại, nắm bắt thị trường. Tuổi thiếu niên của người tuổi Tỵ thường gian nan, ra đời sớm, đấu tranh với đời. Nhờ khôn lanh mà vượt qua được nhiều cơn nguy khốn. Được học hành, học giỏi nhưng ít đạt được bằng cấp, nhưng ra đời thì lại may mắn có được những tính toán phù hợp, gặt hái thành công. Tình duyên người tuổi Tỵ thường không được xuôi chèo mát mái, phải nhẫn nhịn mới bảo toàn mái ấm, một số người phải lận dận tình duyên, sau đổ vỡ mới tìm được hạnh phúc chân thật.
Người tuổi Tỵ gây ấn tượng, khôn ngoan, hấp dẫn và khá lãng mạn, hướng về tinh thần nhiều hơn về vật chất, phong cách tao nhã, sang trọng. Phù hợp với công việc cần tập trung tinh thần.
Người đàn ông tuổi Tỵ có trí tuệ đặc biệt bẩm sinh, nho nhã, lịch sự, rộng rãi chuyện tiền nong. Nhiệt tình, hào phóng, luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Có khát vọng lớn về danh vọng và tiền bạc.
Người phụ nữ tuổi Tỵ thường là mỹ nữ, gương mặt sáng láng và bình thản, an lành, xinh đẹp.Tính tự tin, hiền lương, thẳng thắn, trong sáng, thong thả. Tuy nhiên đầu óc luôn suy nghĩ bận rộn. Nữ thường có số đào hoa nhưng lại thường rơi vào tình cảnh đơn lẻ.
Người tuổi Tỵ khi biết đạo cũng tin đạo pháp nhưng vẫn thường dùng lý trí xét đoán giả chơn, hư thực rồi mới tin. Trong làm phước, bố thí cũng biết cân phân nơi nào cần trước, nơi nào thực sự khó khăn, ít khi làm mà không tính. Nhưng đã làm việc thiện lại không cần danh, không phô trương, không khoe khoang để cho nhiều người biết. Đối với bạn đạo thì hết sức quý trọng. Đối với quý thầy thì có giữ một khoảng cách với lòng tôn trọng. Đối với việc thiện thì gặp việc thiện thì làm. Gặp người nghèo khổ , khó khăn thì “giúp cần câu chứ không cho cá”. Tấm lòng người tuổi Tỵ thật rộng rãi, nếu tiếp tục tu học thì tiếp tục hưởng thụ cuộc sống đầy đủ, hưởng phước báu đời trước và cả đời nay, như bài kinh :
Người tạo được thiện nghiệp,
Làm xong không ăn năn,
Hoan hỉ lòng phơi phới,
Hái quả phúc thường hằng.(Kinh pháp cú 68)
0 comments: